Thông tin Tiểu sử cầu thủ Antoine Griezmann
Antoine Griezmann sinh ngày 21 tháng 3 năm 1991, cao 175cm, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp đang chơi cho câu lạc bộ Atlético Madrid chủ yếu ở vị trí tiền đạo. Griezmann đã là một thành viên của Đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp từng tham dự các giải đấu dành cho lứa tuổi U19, 20 và 21. Năm 2010, anh là một phần của U-19 Pháp đã giành chức vô địch tại Giải vô địch U-19 châu Âu được tổ chức ngay trên quê nhà. Antoine Griezmann có trận đấu ra mắt trong màu áo của đội tuyển quốc gia vào năm 2014 và từng cùng đội tuyển Pháp tham dự World Cup 2014, Euro 2016 và World Cup 2018.
Bắt đầu sự nghiệp của mình tại Real Sociedad, anh đã trải qua năm mùa giải chơi cho câu lạc bộ trước khi chuyển sang thi đấu cho Atlético với phí chuyển nhượng lên tới 30 triệu Euro.
Griezmann đã được sinh ra trong một gia đình nằm ở Mâcon, tỉnh lỵ của Saône-et-Loire, có gốc Đức. Anh bắt đầu sự nghiệp của mình tại câu lạc bộ quê nhà là UF Mâcon. Trong khoảng thời gian đó, anh cũng đã thử việc tại một số câu lạc bộ chuyên nghiệp để tìm kiếm một vị trí trong đội hình trẻ, nhưng đều thất bại vì các câu lạc bộ đều đòi hỏi vóc dáng và nhanh nhẹn.
Năm 2005, trong khi thử việc tại Montpellier, Griezmann đã chơi trong một trận đấu giao hữu với các học viên tới từ học viện bóng đá trẻ Camp des Loges của Paris Saint-Germain ở Paris, và đã gây được ấn tượng cho nhiều câu lạc bộ, đặc biệt là câu lạc bộ Real Sociedad của Tây Ban Nha, khi đó có tuyển trạch viên đã theo dõi trận đấu này. Sau trận đấu, lãnh đạo của câu lạc bộ Tây Ban Nha tạo cơ hội cho Griezmann thử sức trong một tuần ở San Sebastián, và anh đã đồng ý. Anh đã có một kỳ nghỉ hai tuần tại câu lạc bộ. Ngay sau đó, Real Sociedad đã liên lạc với gia đình của Griezmann và chính thức ký bản hợp đồng chơi cho đội hình trẻ của câu lạc bộ. Cha mẹ của Griezmann ban đầu tỏ ra miễn cưỡng có động thái không chấp nhận việc cho con họ đến Tây Ban Nha, nhưng sau đó đã cho phép anh ta thi đấu cho câu lạc bộ sau khi có sự đảm bảo về việc đi lại cũng như môi trường học tập thi đấu.
Antoine Griezmann chơi bóng cho Real Sociedad
Ở Real Sociedad, sau bốn năm ở đội trẻ, anh đã được huấn luyện viên Martín Lasarte gọi lên thi đấu cho câu lạc bộ Real Sociedad vào đầu mùa giải 2009-10. Ngày 2 tháng 9 năm 2009, Griezmann đã có màn ra mắt trong trận đấu ở Cúp Nhà vua Tây Ban Nha khi đội bóng của anh đối đầu với Rayo Vallecano, sau khi được đưa vào sân từ băng ghế dự bị ở phút thứ 77, tuy nhiên trận đấu đó đội bóng của anh đã thua 2-0. Griezmann sau đó đã được thi đấu thường xuyên trong phần còn lại của giải, có được thêm hai bàn thắng trong chiến thắng trước Cádiz và Numancia, điều đó đã giúp Real Sociedad được thăng hạng lên chơi tại La Liga trong mùa giải 2010-11 với tư cách là đội vô địch.
Griezmann có trận ra mắt ở Giải vô địch quốc gia Tây Ban Nha vào ngày 29 tháng 8 năm 2010 trong trận đấu đầu tiên của mùa giải. Trong một buổi phỏng vấn sau trận đấu, anh đã bày tỏ về sự kiện này như là “hoàn thành giấc mơ thời thơ ấu của mình”. Trong trận đấu đầu tiên, Griezmann đã có công trong bàn thắng của Raúl Tamudo trong trận đấu với Real Madrid.
Sau khi ngồi dự bị trong trận đấu đầu tiên tại mùa giải 2011-12, trận đấu chính thức đầu tiên Griezmann trong mùa giải là gặp đương kim vô địch Barcelona hai tuần sau đó, anh ghi bàn thắng cân bằng tỷ số trong trận hòa 2-2.
Trong giải đấu 2012-13, cũng là giải đấu cuối cùng thi đấu cho Real Sociedad, anh ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu với Deportivo La Coruña, giúp đội bóng lần đầu tiên kể từ năm 2003-04 đủ điều kiện tham dự Champions League (về đích ở vị trí thứ 4 tại La Liga) trong chính cuộc cạnh trạnh với Deportivo.
Antoine Griezmann chơi bóng cho Atlético Madrid
Ngày 28 tháng 7 năm 2014, Atlético Madrid đạt được thỏa thuận với Real Sociedad trong việc chuyển nhượng Griezmann, với khoản phí vào khoảng 24 triệu bảng Anh (30 triệu Euro). Griezmann sau đó đã qua được quá trình kiểm tra y tế vào ngày 29 tháng 7 năm 2014, và đã ký một bản hợp đồng có thời hạn 6 năm để thi đấu cho đội bóng thủ đô.
Griezmann đã màn ra mắt câu lạc bộ mới vào ngày 19 tháng 8 năm 2014 trong trận Siêu cúp Tây Ban Nha trên sân Santiago Bernabéu. Anh vào sân ở phút thứ 57, thay thế cho Saúl Ñíguez. Ngày 17 tháng 9, anh đã có bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ. Đó là bàn thắng ghi được tại Cúp C1 châu Âu, trong trận đấu vòng bảng mà Atlético Madrid phải làm khách trên sân của Olympiakos.
Antoine Griezmann ở Đội trẻ Pháp
Sau khi thành công với Real Sociedad thì vào ngày 23 tháng 2 năm 2010, anh đã được ghi tên vào Đội U-19 quốc gia để thi đấu 2 trận giao hữu với Ukraina. Ngày 2 tháng 3, Griezmann đã ra mắt trong đội tuyển trẻ của Pháp, trận đấu có kết quả hòa 0–0 với Ukraina. Trong trận lượt về 2 ngày sau đó, anh đã ghi bàn thắng ở phút thứ 88 giúp Pháp giành chiến thắng với tỉ số 2–1.
Sau chiến thắng của Pháp tại Giải vô địch bóng đá U-19 châu Âu, đội U-19 Pháp sau đó đã giành quyền tham dự giải Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2011, và Griezmann xứng đáng có tên trong đội hình. Ngày 28 tháng 9 năm 2010, anh được gọi vào đội tuyển quốc gia để tham dự các trận đấu giao hữu quốc tế với Bồ Đào Nha và đội dự bị của câu lạc bộ Juventus. Tuy nhiên, Griezmann đã không xuất hiện trong cả hai trận đấu, do bị dính chấn thương đùi trong 1 buổi tập và phải về nhà sớm.
Antoine Griezmann ở Đội chính quốc gia Pháp
Ngày 27 tháng 2 năm 2014, Griezmann đã nhận được cuộc gọi báo rằng, anh đã được huấn luyện viên Didier Deschamps gọi vào đội tuyển quốc gia, thi đấu trong trận giao hữu với Hà Lan tại Stade de France. Và anh đã có trận đấu ra mắt tại đội tuyển quốc gia vào ngày 5 tháng 3 ở đội hình xuất phát, chơi trong 68 phút thi đấu chính thức đầu tiên, giúp đội nhà giành chiến thắng 2–0.
Ngày 13 tháng 5, anh được điền tên trong đội hình của huấn luyện viên Deschamps tham dự World Cup 2014. Ngày 1 tháng 6, trong trận đấu giao hữu với Paraguay ở Nice, anh ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên cho đội tuyển Pháp (trận đấu kết thúc với kết quả hòa 1–1). Anh là sự bổ sung, là lựa chọn thứ 2, sau Olivier Giroud trong trận đấu giao hữu cuối cùng trước thềm World Cup của Pháp với Jamaica vào ngày 8 tháng 6, đó là trận đấu mà Pháp giành chiến thắng 8–0.
Vào ngày 15 tháng 6, anh đã có trận đấu đầu tiên của mình trong màu áo đội tuyển Pháp tại World Cup 2014, sau khi được vào thay thế cho người đồng đội Franck Ribéry ở bên hành lang cánh trái của Les Bleus, trận đấu mà Pháp đánh bại Honduras 3–0 ở Porto Alegre. Pháp sau đó đã vào đến vòng tứ kết trước khi bị loại bởi Đức.
Tại Euro 2016 tổ chức tại quê nhà Pháp, trong trận đấu thứ hai gặp Albania, Griezmann đã ghi bàn thắng đầu tiên của anh tại giải đấu này ở những phút cuối của hiệp 2. Ở vòng 16 đội, anh tỏa sáng với cú đúp trong trận thắng 2–1 trước Cộng hòa Ireland. Ở vòng tứ kết, anh ghi được một bàn trong trận thắng 5–2 trước Iceland, giúp đội tuyển Pháp lọt vào bán kết. Tại vòng đấu này, anh lại tiếp tục tỏa sáng với cú đúp trong chiến thắng 2–0 trước đương kim vô địch thế giới Đức, giúp đội tuyển Pháp lọt vào trận chung kết trước khi để thua Bồ Đào Nha với tỉ số 0-1. Kết thúc giải đấu, anh được UEFA nhận hai danh hiệu vua phá lưới Euro 2016 với 6 pha lập công và cầu thủ xuất sắc nhất giải.
Thông tin thêm Wiki Antoine Griezmann
Griezmann trong màu áo Pháp năm 2021 |
||||||||||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | ||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Antoine Griezmann | |||||||||||||||||||||||||||
Ngày sinh | 21 tháng 3, 1991 (31 tuổi) | |||||||||||||||||||||||||||
Nơi sinh | Mâcon, Pháp | |||||||||||||||||||||||||||
Chiều cao | 1,76 m (5 ft 9 in) | |||||||||||||||||||||||||||
Vị trí | Tiền đạo | |||||||||||||||||||||||||||
Thông tin câu lạc bộ | ||||||||||||||||||||||||||||
Đội hiện nay |
Atletico Madrid (mượn từ Barcelona) |
|||||||||||||||||||||||||||
Số áo | 8 | |||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | ||||||||||||||||||||||||||||
1997–1999 | EC Mâcon | |||||||||||||||||||||||||||
1999–2005 | UF Mâconnais | |||||||||||||||||||||||||||
2005–2009 | Real Sociedad | |||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | ||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | |||||||||||||||||||||||||
2009–2014 | Real Sociedad | 180 | (46) | |||||||||||||||||||||||||
2014–2019 | Atlético Madrid | 180 | (94) | |||||||||||||||||||||||||
2019– | Barcelona | 74 | (22) | |||||||||||||||||||||||||
2021– | → Atlético Madrid (mượn) | 6 | (1) | |||||||||||||||||||||||||
Đội tuyển quốc gia‡ | ||||||||||||||||||||||||||||
2010 | U-19 Pháp | 5 | (2) | |||||||||||||||||||||||||
2011 | U-20 Pháp | 7 | (1) | |||||||||||||||||||||||||
2010–2012 | U-21 Pháp | 7 | (3) | |||||||||||||||||||||||||
2014– | Pháp | 102 | (42) | |||||||||||||||||||||||||
Thành tích
|
||||||||||||||||||||||||||||
* Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ chuyên nghiệp chỉ được tính cho giải quốc gia và chính xác tính đến 22 tháng 5 năm 2021 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia chính xác tính đến 16 tháng 11 năm 2021 |